CBL.64.7.1 - Bản Chất Của Thiện Ác
Cũng giống như tất cả các pháp, thiện và ác là hai pháp, mà các pháp tự bản chất của nó không tánh, nên hai pháp thiện ác cũng không tánh.

Tiểu Luận: Vai Trò Của Tứ Chánh Cần Trong Hệ Thống Giáo Pháp, Và Làm Thế Nào Để Xác Định Đâu Là Thiện, Đâu Là Ác Đối Với Các Tầng Bậc Tu Hành
7. Bản Chất Của Thiện Ác Và Các Quan Niệm Sai Khác Về Hai Pháp Này
7.1 Bản Chất Của Thiện Ác
Cũng giống như tất cả các pháp, thiện và ác là hai pháp, mà các pháp tự bản chất của nó không tánh, nên hai pháp thiện ác cũng không tánh. Có nghĩa rằng, trong một pháp được cho là thiện, pháp này tự nó không có tánh thiện. Đối với một pháp được coi là ác, pháp này tự nó không có tánh ác.
Chính các pháp không tánh, và thiện ác cũng không tánh, nên thiện và ác có thể thay đổi liên tục qua từng quả vị. Sự thay đổi này, tùy vào quan niệm hay mục tiêu đặt ra mà pháp ấy được cho là thiện hay ác.
Như vậy, một pháp như thế nào mới được gọi là tối thượng thiện?
Gọi là tối thượng thiện, có nghĩa rằng pháp này đủ năng lực đưa người tu hành đạt đến chân thật trí tuệ. Vì rằng, chỉ khi nào đạt đến chân thật trí tuệ, vị hữu tình mới thấy được “thật tướng của hai pháp thiện và ác”, khi thấy thật tướng của hai pháp thiện ác, vị ấy mới trực nhận ra rằng, thiện ác chẳng thể được (bất khả đắc). Thiện ác chẳng thể được chính là tối thượng thiện. Gọi là tối thượng thiện vì chân lý này không còn thay đổi được nữa, vì thế trong kinh Đại Niết bàn Phật dạy Bồ Tát quán pháp “thiện chẳng thể được, bất thiện chẳng thể được”.
Để minh hoạ cho ý nghĩa (bản chất) các pháp chẳng thể được (bất khả đắc), nên thiện ác cũng chẳng thể được. Vì thiện ác chẳng thể được, nên Tứ Chánh Cần cũng chẳng thể được. Vì Tứ Chánh Cần chẳng thể được, mới gọi là Đại Bồ Tát thành tựu Đại Thừa (tối thượng thiện). Đoạn kinh sau nói lên điều này:
“Phật bảo ngài Tu Bồ Đề: Có Đại Bồ Tát Đại thừa, chính là Tứ Chánh Cần. Những gì là bốn? Đại Bồ Tát đối với những pháp ác bất thiện chưa phát sanh, vì làm cho pháp ác chẳng sanh nên muốn có tâm siêng tinh tấn mà nhứt tâm hành đạo. Đối với pháp ác bất thiện đã phát sanh, vì dứt trừ nên muốn có tâm siêng tinh tấn mà nhứt tâm hành đạo. Đối với pháp thiện chưa phát sanh, vì phát sanh nên muốn có tâm siêng tinh tấn mà nhiếp tâm hành đạo. Đối với pháp thiện đã phát sanh, vì làm cho còn mãi để tu tập đến được đầy đủ rộng lớn, nên muốn có tâm siêng tinh tấn mà nhiếp tâm hành đạo, vì bất khả đắc vậy. Đây gọi là đại Bồ Tát Đại thừa...” [ ]
Nếu bảo rằng, thiện chẳng thể được, bất thiện chẳng thể được, thì vai trò của Tứ Chánh Cần xuất hiện trong Giáo Pháp có ích lợi gì?
Nói thiện chẳng thể được, bất thiện chẳng thể được, là nói đến cứu cánh tối hậu của Giáo Pháp. Khi người tu hành chưa thể thành tựu cứu cánh tối hậu này, thì thiện ác vẫn phải đóng vai trò của chiếc gậy tinh tấn giúp người tu hành leo lên đỉnh của ngọn núi Giáo Pháp.
Điều này Phật dạy trong bốn câu kệ được coi là kim chỉ nam của sự tinh tấn. Bốn câu kệ đó là:
”Chư ác mạc tát.
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý.
Thị chư Phật giáo”.
Bốn câu này có nghĩa rằng, không làm các việc ác, chỉ làm những điều lành, (cho đến khi nào tâm) ý tự thanh tịnh, thì đây mới là lời Phật dạy. Theo tinh thần bốn câu trên, ta thấy rất rõ tính chất phương tiện trong chiếc gậy thiện ác, đến khi thấy được cứu cánh rốt ráo tâm ý thanh tịnh, thì cứu cánh lại vượt ra ngoài hai phạm trù nói trên.
Điều này cũng giống như người dùng gậy leo núi, khi lên đến đỉnh núi, cây gậy trở thành vô dụng. Cũng chính cứu cánh tối hậu vượt thoát ra khỏi quan niệm thiện ác, kinh Pháp Cú Phật lại dạy:
“Người sống ở đời này.
Không nhiễm cả thiện ác.
Không sầu, sạch không bụi.
Ta gọi Bà La Môn”...
Hoặc lời dạy sau:
“Ai vượt qua thiện ác.
Chuyên sống đời Phạm Hạnh.
Lặng lẽ quan sát đời.
Mới xứng danh Tỳ Kheo”...
(còn nữa)