Tác Phẩm Lý Tứ

CBL.64.7.2 - Những Quan Niệm Sai Khác Về Thiện Ác

MB 857 Lý Diệu Sinh 23.08.2025

Nói đến Tứ Chánh Cần là nói đến thiện ác. Và thiện ác của Tứ Chánh Cần như những mũi tên dẫn đường xuyên suốt chiều dài của Giáo Pháp. Giáo Pháp lại có nhiều tầng bậc tu hành, nên thiện ác của Tứ Chánh Cần cũng theo đó mà hình thành những quan điểm sai khác.

Tiểu Luận: Vai Trò Của Tứ Chánh Cần Trong Hệ Thống Giáo Pháp, Và Làm Thế Nào Để Xác Định Đâu Là Thiện, Đâu Là Ác Đối Với Các Tầng Bậc Tu Hành

7. Bản Chất Của Thiện Ác Và Các Quan Niệm Sai Khác Về Hai Pháp Này

7.2. Các Quan Niệm Sai Khác Về Hai Pháp Này

Nói đến Tứ Chánh Cần là nói đến thiện ác. Và thiện ác của Tứ Chánh Cần như những mũi tên dẫn đường xuyên suốt chiều dài của Giáo Pháp. Giáo Pháp lại có nhiều tầng bậc tu hành, nên thiện ác của Tứ Chánh Cần cũng theo đó mà hình thành những quan điểm sai khác.

Trong Phật Đạo, từ sơ phát tâm cho đến quả vị cuối cùng tuy có nhiều địa vị, nhưng tựu trung có ba giai đoạn người tu hành phải vượt qua để thành tựu cứu cánh cao nhất. Thiện ác của Tứ Chánh Cần cũng tòng theo đó mà phát sinh những ý nghĩa sai khác. Chỉ đến khi nào, người tu hành thành tựu đạo quả cao nhất, thì bây giờ ý nghĩa thiện ác mới không còn thay đổi nữa.

Ba quan niệm thiện ác của Tứ Chánh Cần gồm có: Thiện ác thế gian, thiện ác xuất thế gian và thiện ác xuất thế gian thượng thượng.

7.2.1. Thiện ác thế gian.

Thiện ác thế gian là những quan niệm thiện ác thuộc về ba cõi. Đây là hai pháp đối đãi, tuỳ vào phong tục, tập quán, văn hoá, văn minh, nghiệp quả mà hình thành. Vì thế nó thuộc về tương đối, vì tương đối nên chỉ đúng với nơi này, không đúng với nơi kia, phù hợp với văn hoá này, không phù hợp với văn hoá khác.

Cùng một hành động xảy ra, có khi với một nền văn minh hay loài này là thiện, lại ác với một nền văn minh hay loài khác. Tuỳ vào quan niệm, tuỳ vào mục tiêu để phân chia thiện ác, sự phân chia này không căn cứ vào chân lý, vì thế nó không có chân lý. Vì không có chân lý, nên thiện ác thế gian chỉ là hai mặt của một vấn đề, cho nên ở đâu có thiện sinh, ở đó cũng có ác sinh. Giống như mảnh đất nào lúa mọc được, thì cỏ dại cũng mọc được!

Nếu người tu hành chỉ dừng lại ở việc soi xét thiện ác thế gian, coi đây như là cứu cánh, không mong cầu bức phá để ra khỏi vòng luẩn quẩn của hai pháp này, địa vị cao nhất trong sự soi chiếu này chỉ hạn chế ở nhân thiên thừa. Người tu hành bằng lòng với các thành tựu của nhân thiên thừa, không tinh tấn ra khỏi ba cõi, đối với Phật Đạo, sự dừng lại này là một ác pháp!

7.2.2. Thiện ác xuất thế gian.

Trong đạo xuất thế, thiện ác lại có ý nghĩa khác hơn. Đạo xuất thế ra ngoài đối đãi nhị nguyên, vượt lên khỏi cặp phạm trù thiện ác thế gian, nên tên gọi thiện ác thì có, mà thực thể lại không, như sừng thỏ lông rùa. Vì rằng bản chất của xuất thế gian chính là Niết bàn, mà Niết bàn vô sở hữu, vô sở đắc, cho nên thiện ác cũng vô sở hữu, vô sở đắc. Vì thế, vô sở hữu, vô sở đắc chính là thiện pháp xuất thế. Sở hữu, sở đắc đối với xuất thế chính là ác pháp.

7.2.3. Thiện ác xuất thế gian thượng thượng.

Xuất thế gian thượng thượng thuộc về đạo Nhất thừa. Ý nghĩa thiện ác của đạo Nhất thừa không giống thế gian và xuất thế gian.

Đạo Nhất thừa căn cứ vào trí tuệ và việc giáo hoá chúng sanh làm cơ sở đánh giá thiện ác. Điều gì có lợi cho chúng sanh trên con đường đạo pháp, điều đó được coi là thiện. Ngược lại, những điều nào không nhằm giúp chúng sanh thành tựu đạo nghiệp, đó chính là ác pháp.

Trong ý nghĩa này, đạo Nhất thừa không dựa vào hiện tượng để đánh giá, mà xem xét động cơ của một pháp để kết luận pháp đó là thiện hay ác. Vì thế có nhiều chuyện kinh kể lại, vượt khỏi suy lường thiện ác của thế gian hay xuất thế.

 Tóm lại, việc nhận định thiện ác và thành tựu thiện đạo của ba cấp độ tu hành được nêu ở trên không đồng nhất. Vì thế, ý nghĩa Tứ Chánh Cần cũng không giống nhau. Tuy không giống nhau về quan điểm thiện ác, nhưng lại nhất quán trên con đường tiến về Vô Thượng quả. Chính sự nhất quán này, làm cho Giáo Pháp trở nên phong phú và sinh động. Đây là nét đặc thù của Phật Pháp, thiết nghĩ ngoài Phật Pháp, không thể có một Giáo Pháp nào khác có được sự linh hoạt này. Và cũng chính điều này, tạng luận của Phật Giáo ngày một nhiều hơn, đồ sộ hơn!

Đoạn luận sau của Bồ Tát Long Thọ nói về sai biệt giữa thiện ác xuất thế gian (A La Hán) và Thiện trí của Phật (xuất thế gian thượng thượng).

“Hết thảy thân nghiệp, hết thảy khẩu nghiệp, hết thảy ý nghiệp, hành theo trí tuệ: Phật hết thảy thân, khẩu, ý nghiệp trước biết rồi sau theo chỗ biết mà hành. Thân, khẩu, ý nghiệp của chư Phật, mọi hành động đều lợi ích chúng sanh, cho nên gọi là trước biết rồi sau theo trí tuệ mà hành.

Như trong Kinh nói: chư Phật cho đến thở vào thở ra còn lợi ích chúng sanh, huống gì thân, khẩu, ý nghiệp cố làm mà không lợi ích? Các chúng sanh oán ác nghe hương khí hơi thở ra vào của Phật, đều được tín tâm thanh tịnh, ưa vui nơi Phật: Chư thiên nghe hương khí hơi thở của Phật cũng đều bỏ năm dục, mà phát tâm tu thiện. Do vậy, nói thân, khẩu, ý nghiệp hành theo trí tuệ.

Thanh văn, Bích chi Phật không có việc ấy. Tâm cố làm thiện rồi sau thân, khẩu nghiệp mới thiện, mà ý nghiệp có khi vô ký, không theo trí tuệ mà tự sanh, huống gì người khác, như Tỳ kheo Kiều phạm ba đề tuy chứng được A la hán mà tự nhả đồ ăn rồi nhai lại; nghiệp ấy không theo trí tuệ...” (Trích Đại Trí Độ Luận)

(còn nữa)