Tác Phẩm Lý Tứ

CBL.64.6.1 - Các Cơ Sở Làm Căn Cứ Để Lập Thiện Ác

MB 857 Lý Diệu Sinh 23.08.2025

Trong quá trình tu hành, để xác lập thiện ác một cách chính xác, người tu hành phải dựa vào những cơ sở đúng đắn và đáng tin cậy.

Tiểu Luận: Vai Trò Của Tứ Chánh Cần Trong Hệ Thống Giáo Pháp, Và Làm Thế Nào Để Xác Định Đâu Là Thiện, Đâu Là Ác Đối Với Các Tầng Bậc Tu Hành

6. Xác Lập Thiện - Ác Trong Phật Đạo

6.1. Các cơ sở làm căn cứ để lập thiện ác

Trong quá trình tu hành, để xác lập thiện ác một cách chính xác, người tu hành phải dựa vào những cơ sở đúng đắn và đáng tin cậy.

Việc làm này, ta có thể hình dung như một người bắn tên, muốn mũi tên trúng đích, đòi hỏi người bắn phải thấy rõ mục tiêu và phải xác quyết rằng, cái ta đã thấy, chính là mục tiêu. Mũi tên bắn trúng mục tiêu được coi là thiện đạo (đường đi thiện), ngược lại mũi tên không trúng đích hoặc rơi nửa chừng là ác đạo hoặc bất thiện đạo. Phật Đạo có nhiều mục tiêu để người tu hành lần lượt nhắm đến, và chỉ khi nào mũi tên bay đến mục tiêu cuối cùng, bây giờ công việc của người bắn tên mới dừng lại, gọi là thành tựu tất cánh Tối Thượng Thiện (cứu cánh cuối cùng).

Ta cũng có thể hiểu, hành trình tiến về Vô Thượng Thiện, hay Vô Thượng Trí Tuệ của Phật Đạo giống như một người đi tìm kho báu, kho báu được cất giấu ở một nơi mà người ấy chưa bao giờ đến đó và rất ít kẻ biết.

Muốn cuộc hành trình tốt đẹp, ngoài việc chuẩn bị các thứ dành cho đời sống tối thiểu, người này phải có hai thứ công cụ cần thiết đó là một tấm bản đồ và cái la bàn. Tấm bản đồ cho biết những con đường người ấy phải đi qua, cái la bàn dùng để xác định phương hướng, đây là hai dụng cụ không thể thiếu, nếu thiếu hai món này, việc tìm đến kho báu là không thể! Con đường đi đến cứu cánh tối thượng của Phật Đạo ví như kho báu ở rất xa và ít người biết đến, các thứ dành cho đời sống tối thiểu chính là xây dựng thái độ tu hành và thể hiện nếp sống thiểu dục tri túc, tấm bản đồ là kinh điển và các mô hình giáo lý trong Phật Đạo, cái la bàn để định hướng chính là Tứ Chánh Cần.

Ngoài đời, có rất nhiều loại bản đồ khác nhau, tuỳ mục đích sử dụng, người ta đo đạc và thể hiện bằng hình vẽ những chi tiết nổi bật khác nhau. Tuy các chi tiết nổi bật được thể hiện khác nhau, nhưng những tấm bản đồ trong cùng một vùng lãnh thổ đồng hiển thị những đường nét căn bản của vùng lãnh thổ đó, chỉ khác chăng, nó được hiển thị khái quát hay chi tiết. Vì thế, người ta có thể dùng chung các loại bản đồ để thực hiện một công việc tìm kiếm nào đó.

Trong Phật Đạo, kinh điển chính là tấm bản đồ đại cương cực lớn, trên đó hiển thị tất cả vị trí, đặc điểm, những con đường và các thông số đo đạc, đây là tấm bản đồ dùng chung cho đa số quần chúng. Và tuỳ vào chuyên môn hay mục đích sử dụng, Phật Đạo cũng có những tấm bản đồ chủ đề, các thể hiện trên đó chú trọng vào một lãnh vực chuyên môn cụ thể, tấm bản đồ này của Phật Đạo là các mô hình giáo lý dạy người tu hành bằng cách chuyên môn hoá hệ thống giáo lý. Ngoài ra, Phật Đạo cũng có những tấm bản đồ tô pô (topologia) được phác hoạ đơn giản qua những đường nét hình học cơ bản, đó là các bài kệ khai tâm hay những lời khai thị. 

Các loại bản đồ này của Phật Đạo tuy khác nhau về cách thể hiện, nhưng đồng giúp người tu hành theo đó tiến về Vô Thượng Quả!

6.1.1. Khảo sát bản đồ đại cương của Phật Đạo.

Bản đồ đại cương của Phật Đạo, là toàn bộ hệ thống kinh điển. Đường đi của tấm bản đồ này, được thể hiện qua giáo trình tổng thể của năm thời thuyết pháp, người tu hành lần lượt thành tựu việc tu học của mình qua từng thời thuyết, đây là hình ảnh giáo dục của “không gian chánh pháp”. Cụ thể, nó là con đường giáo hoá của Đức Phật.

Năm thời thuyết pháp của Đức Phật có thể tạm chia như sau:
 

 1) Thời Hoa Nghiêm
 

 2) Thời A Hàm
 

 3) Thời Phương Đẳng
 

 4) Thời Bát Nhã
 

 5) Thời Pháp Hoa và Niết bàn
 

Năm thời kỳ giáo hoá này, được coi là giáo trình chuẩn trong hệ thống Giáo Pháp. Đệ tử của Phật, lần lượt thành tựu từng thời kỳ, gọi là “thiện thời!”

6.1.2. Bản đồ chuyên môn

Ngoài hệ thống giáo trình chuẩn của Đức Phật, các Bồ Tát đã chuyên môn hoá giáo trình này bằng các mô hình giáo lý riêng biệt. Mục tiêu của việc chuyên môn hoá, hay phân ngành, là để giúp rút ngắn thời gian tu học, điều này nhằm đáp ứng không gian tu học rộng lớn của những căn cơ khác nhau vào những thời điểm giáo hoá khác nhau. Và điều này cũng nói lên rằng, “công đức giáo hoá của các Bồ Tát không viên mãn như một Đức Phật”, trong một thời thuyết pháp của Đức Phật, có vô số người chứng các quả vị sai biệt, trong khi đó, năng lực giáo hoá của các Bồ Tát có giới hạn, việc chia thành nhiều chuyên ngành, nói lên sự hạn chế trong năng lực giáo hoá của các Bồ Tát. Các giáo trình chuyên môn bao gồm:

 • Giáo trình Tứ Đế

 • Giáo trình Ba mươi bảy phẩm

 • Giáo trình Hai Vô Ngã

 • Giáo trình Tam Vô Lậu Học

 • Giáo trình Tam Giải Thoát Môn

 • Giáo trình Thập Nhị Nhân Duyên

 • Giáo trình Ngũ Nhãn

 • Giáo trình Tam Thừa

 • Giáo trình Năm Bồ Đề

 • Giáo Trình Giác Ngộ, Giải Thoát và Trí Tuệ

Nói chung, có rất nhiều giáo trình được chuyên môn hoá dưới hình thức phân ngành. Mỗi giáo trình là một con đường dẫn về Vô Thượng Quả theo cách riêng lẻ. Thiện ác trong mỗi giáo trình là sự tiệm tiến cho đến khi người tu học hoàn toàn thành tựu giáo trình.

6.1.3. Bản đồ tô pô của Phật Đạo

Những bài kệ khai tâm hay các câu khai trị trong Phật Đạo, được ví như một dạng bản đồ sơ sài. Loại bản đồ hay cách giáo dục này mang tính cấp thời, được vẽ lên trong một đương cơ đặc biệt, nó giúp người tu học nhận ra một manh mối nào đó ẩn chứa trong các nét vẽ đơn giản một cách tức thì. Một vài ví dụ về loại hình giáo dục này:

• “Ta dừng còn ông chưa dừng”: Chỉ một câu nói ngắn gọn của Phật, Ương Quật Ma La chứng thánh.

• “Này Bà Vi Đề Hi! Khi tâm tưởng Phật, tâm ấy tức Phật, tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật”: Nghe xong câu này, Bà Vi Đề Hi chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.

• “Các pháp do duyên sanh, pháp theo duyên mà diệt, Đức Bổn Sư Cù Đàm, đã dạy ta như thế”: Nhân mấy câu này, nhiều đệ tử Phật chứng quả A La Hán.

• Hoặc những bài kệ tiêu biểu trong mười tám bài kệ dưới đây của Bồ Tát Long Thọ, cũng thuộc một dạng kệ khai tâm:

 Âm Hán Việt:
 Bất sinh diệc bất diệt,
 Bất thường diệc bất đoạn.
 Bất nhứt diệc bất dị, 
 Bất lai diệc bất xuất

 Dịch:
 “Không sinh cũng không diệt,
 Không thường cũng không đoạn
 Không một cũng không khác
 Không đến cũng không đi.”

 Âm Hán Việt:
 Năng thuyết thị nhân duyên, 
 Thiện diệt chư hí luận.
 Ngã khể thủ lễ Phật, 
 Chư thuyết trung đệ nhất.

 Dịch:
 “Khéo nói nhân duyên ấy
 Hay diệt những hí luận
 Ðệ nhất trong các thuyết
 Con cúi đầu lễ Phật”

 Âm Hán Việt:
 Chư pháp bất tự sanh, 
 Diệc bất tùng tha sanh.
 Bất cộng bất vô nhân, 
 Thị cố tri vô sanh.

 Dịch:
 “Các pháp không tự sinh 
 Cũng không sinh từ cái khác
 Không cộng sinh, không vô nhân sinh
 Do đó nên hiểu rằng, các pháp vốn vô sinh...”

Nói chung, có rất nhiều loại hình của Phật Đạo giúp người tu hành xác lập cơ sở thiện ác. Và tất cả các loại hình cơ sở này, giống như những con đường khác nhau, nhưng cùng đi lên một đỉnh núi, trên mỗi con đường, hướng đi nào chắc chắn tiến về ngọn núi, thì hướng đó là thiện, hướng đi nào làm cho ta không thể đến đỉnh núi là ác. Sau đây là một đoạn kinh tiêu biểu của thiện ác trong Tứ Chánh Cần:

“Một thời, tại Sàvatthi, Thế Tôn nói như sau:

Này các Tỳ kheo, có bốn chánh cần này. Thế nào là bốn?

• Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đối với các ác, bất thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn không cho sanh khởi, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng.

• Ðối với các ác, bất thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn đoạn tận, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng.

• Ðối với các thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn làm cho sanh khởi, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng.

• Ðối với các thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn làm cho an trú, không cho vong thất (asammosàya), làm cho tăng trưởng, làm cho quảng đại, tu tập, làm cho viên mãn, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng.

Những pháp này, này các Tỳ kheo, là bốn chánh cần.

Ví như, này các Tỳ kheo, sông Hằng thiên về phương Ðông, hướng về phương Ðông, xuôi về phương Ðông. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tu tập bốn chánh cần, làm cho sung mãn bốn chánh cần, thiên về Niết bàn, hướng về Niết bàn, xuôi về Niết bàn. Này các Tỳ kheo, bốn chánh cần tu tập làm cho sung mãn như thế nào, lại thiên về Niết bàn, hướng về Niết bàn, xuôi về Niết bàn?

Ở đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đối với các ác, bất thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn không cho sanh khởi, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng; đối với các ác, bất thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn đoạn tận, tinh cần, cố gắng; đối với các thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn làm cho sanh khởi, cố gắng; đối với các thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn làm cho an trú, không cho vong thất, làm cho tăng trưởng, làm cho quảng đại, tu tập, làm cho viên mãn, tinh cần, tinh tấn, quyết tâm, cố gắng.

Như vậy, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tu tập bốn chánh cần, làm cho sung mãn bốn chánh cần, thiên về Niết bàn, hướng về Niết bàn, xuôi về Niết bàn...”.

(còn nữa)